[Tư liệu] - Hồ sơ các huyền thoại Barça

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Ramallets
n_f_c_barcelona_antoni_ramallets-51150.jpg


Họ và tên Antonio Ramallets Simón
Ngày sinh Ngày 04 tháng sáu năm 1924 (85 tuổi)
Nơi sinh Barcelona, Tây Ban Nha
Vị trí Thủ môn

Antonio Ramallets Simón(sinh ngày 04 Tháng Sáu 1924 tại Barcelona) Là một cựu Cầu thủ v à HLV bóng đá người Tây Ban Nha . Ông chơi ở v ị trí thủ môn và dành phần lớn sự nghiệp của mình tại CF Barcelona. Ramallets đoạt Zamora Trophy như là thủ môn tốt nhất trong La Liga vào những năm 1950 và đầu thập niên 1960. Ông cũng chơi cho cả hai đội tuyển Tây Ban Nha và Catalan . Sau khi giải nghệ, ông trở thành huấn luyện, và từng dẫn dắt các CLB; Real Valladolid, Real Zaragoza, Real Murcia và CD Logroñés.

FC Barcelona

Ramallets ký hợp đồng CF Barcelona vào năm 1946 ở tuổi 23. Sau đó ông trải qua mùa bóng 1946/47 được cho mượn tại Real Valladolid. Sau đó ông trở lại CF Barcelona, và trở thành thủ môn dự bị cho Velasco. Trận đấu đầu tiên của ông tại La Liga là chiến thắng 2-1 trước Sevilla CF ngày 28 Tháng Mười Một năm 1948. Mặc dù đó là lần xuất hiện duy nhất của ông trong mùa giải 1948/49, song trong mùa sau đó ông đã trở thành sự lựa chọn số 1 trong khung gỗ của câu lạc bộ.
n_f_c_barcelona_antoni_ramallets-703296.jpg

Ông là thành viên nổi bật của Barca trong những năm 1950 cùng với các đồng đội nổi tiếng khác như Joan Segarra, Maria Gonzalvo, Ladislao Kubala, Sandor Kocsis, Evaristo, Luis Suárez và Zoltán Czibor. Trong suốt sự nghiệp của mình ông thi đấu cho Barca 538 trận, trong đó có 288 trận tại La Liga và từng 5 lần xuất sắc đoạt danh hiệu Zamora. Ngày 06 tháng 3 năm 1962 ông góp mặt trong trận đấu CF Barcelona thắng Hamburger SV với tỉ số 5-1.

Sự nghiệp quốc tế

Giữa 1950 và 1961 Ramallets chơi 35 trận trong màu áo tuyển Tây Ban Nha, trận đấu đàu tiên của ông tại đội tuyển là trước Chile ngày 29 tháng 6 năm 1950 trong Cúp bóng đá thế giới 1950. Tại giải đấu ông được đặt biệt danh The Cat of Maracana. Ngoài ra Ramallets cũng chơi 7 trận cho đội tuyển Catalan.

Danh hiệu

Zamora Trophy: 1952, 1956, 1957, 1959, 1960
La Liga Champions: 1948, 1949, 1952, 1953, 1959, 1960
Copa del Generalísimo: 1951, 1952, 1953, 1957
Copa Eva Duarte: 1949, 1952, 1953,
Inter-Cities Fairs Cup: 1958, 1960
Copa Latina: 1952

CLBChuyên nghiệp

Năm Câu lạc bộ Trận (số bàn thắng)*

1942-1944: RCD Mallorca ?
1944-1945: CD San Fernando ?
1945-1947: Real Valladolid ?
1947-1962: CF Barcelona 288 (0)

Đội tuyển quốc gia
1948-1960: Catalan XI 7 (0)
1950-1961: Tây Ban Nha 35 (0)
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Sígfrid Gracia
SIGFRIDGRACIAretrat.jpg


Họ và tên: Sígfrid Gracia Royo
Ngày sinh: Tháng ba 27, 1932
Nơi sinh: Gavà, Tây Ban Nha
Ngày mất: 23 tháng 5 năm 2005 (73 tuổi)
Nơi mất: Gavà, Tây Ban Nha
Vị trí: Hậu vệ

Sígfrid Gracia Royo sinh ngày 27 tháng 3 năm 1932 tại Gava – Barcelona Mất ngày 23 tháng 5 năm 2005), là một cựu cầu thủ bóng đá người TBN đã dành phần lớn sự nghiệp của mình tại FC Barcelona,

Ông chơi ở vị trí hậu vệ trái,với một phong độ hết sức ổn định và là một phần không thể thiếu của hàng phòng ngự Barca lúc bâý giờ mặc dù ít có những pha bóng ngoạn mục trên sân nhưng sự hiện diện của ông là hết sức quan trọng. Ông thi đấu cho Barca trong 14 mùa giải, từ năm 1952 đến năm 1966.
de20df1e831d2209694e1a99efcfe842.jpg

Gracia gia nhập FC Barcelona trong mùa 1952-1953, theo hướng dẫn của huấn luyện viên Fernando Daucik. Ông chơi 14 năm trong đội bóng. Với mức trung bình 31 trận mỗi mùa. Ông tham gia tổng cộng 525 trận và ghi 21 bàn cho đến khi giã từ sự nghiệp vào năm 1966. Chiếm vị trí thứ sáu trong danh sách các cầu thủ khoác áo nhiều lần nhất cho FC Barcelona.

Cùng với những đồng đội nổi tiếng khác thời bấy giờ như: Basora, Kubala, Moreno và Manchon, đã giúp cho Barca xây dựng được một trong những đội bóng tốt nhất trong lịch sử của câu lạc bộ.
Thất bại đáng tếc nhất của ông là trận thua trước Benfica trong trận chung kết Cup C1 năm 1961.

Trận đấu chia tay ông diễn ra vào ngày Ngày 12 tháng 10 năm 1966 trước Benfica (1-1).

Sự nghiệp quốc tế

Gracia thi đấu 10 trận cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha trong đó xuất hiện lần đầu tại 1959, ông cũng là thành viên của đội tham dự FIFA World Cup 1962 tại Chile.


Chuyên nghiệp *

Năm - Đội - Trận - (Số bàn thắng)
1952-1966 Barcelona 231 (5)

Đội tuyển quốc gia
1956 Tây Ban Nha B 1 (0)
1959-1962 Tây Ban Nha 10 (0)

Danh hiệu

Liga: 1952-1953, 1958-1959,1959 - 1960
Copas de Ferias: 1955-1958, 1958-1960 y 1965-1966
Copas de España: 1952-1953, 1956-1957, 1958-1959 , 1962-1963
Copa Eva Duarte: 1953
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Hans Krankl
HANSI_KRANKL.JPG

Họ và tên: Johann Krankl
Ngày sinh: Ngày 14 Tháng 2 1953 (56 tuổi)
Nơi sinh: Viên, Áo
Chiều cao: 1,82 m
Vị trí: Tiền đạo

Johann "Hans" Krankl (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1953 tại Viên) Là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Ông được biết đến với tư cách là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất trong lịch sử của Barca cũng như đội tuyển Áo.

Ông bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại Rapid Wien và ở đó trong 8 năm, ngoài một năm tại Wiener AC trước khi chuyển đến Barcelona vào năm 1978. Tuy chỉ thi đâú cho đội chủ sân Nou Camd trong 2 mùa giải nhưng chừng đó cũng quá đủ để Krankl để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người hâm mộ với một hiệu suất ghi bàn đáng nể; (Ghi tới 29 bàn trong 30 trận đầu tiên )
KranklBarcelona.jpg

Nổi tiếng với cái chân trái ông là nỗi khiếp sợ của hàng phòng ngự đối phương lúc bấy giờ, ông đã giúp Barcelona giành chiến thắng trong Cúp bóng đá Tây Ban Nha trong mùa giải đầu tiên của mình cũng như Cup Winners 'Cup, thành tích nổi bật nhất của Krankl tại Barca chính là chức vô địch cup Uefa vào năm 1979.

Sự nghiệp quốc tế

Trận đấu đầu tiên của Krankl trong màu áo của đội tuyển Áo là trong một trận đấu giao hữu với Brazil vào tháng 6 năm 1973 và là một người tham gia ở FIFA World Cup 1978 và 1982 ông cũng là người tham dự trong trận đấu lịch sử mà Áo đã thắng Tây Đức với tỉ số 3 – 2.
502146703_9719da0883.jpg

Trong suốt sự nghiệp của mình tại đội tuyển quốc gia Krankl ghi được 34 bàn trong 69 trận đấu.

Kể từ khi kết thúc sự nghiệp của mình đang chơi ở Áo Salzburg năm 1989, Krankl trở thành một người quản lý và huấn luyện viên bóng đá. Lần gần đây nhất ông dẫn dắt đội tuyển Áo. Nhưng do thành tích kém cỏi ông đã bị sa thải vào ngày 28 tháng chín năm 2005 sau khi Áo không đủ điều kiện cho World Cup 2006.

Chuyên nghiệp

Năm - Câu lạc bộ
1970-1971: Rapid Wien
1971-1972: Wiener AC
1972-1978: Rapid Wien
1978-1980: Barcelona
1980: First Vienna
1980: Barcelona
1981-1986: Rapid Wien
1986-1988: Wiener AC
1988: Kremser SC
1989: Áo Salzburg

Đội tuyển quốc gia

1973-1985: Áo 69 (34)

Danh hiệu
Câu lạc bộ

Bundesliga - Áo (2): 1982, 1983
Cúp bóng đá Áo (4): 1976, 1983, 1984, 1985
UEFA Cup Winners 'Cup (1): 1979
Copa del Rey (1): 1981

Cá nhân

Áo Bundesliga Top ghi bàn (4): 1974, 1977, 1978, 1983
Pichichi Trophy: 1978-1979
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Javier Urruticoechea
URRUTI.jpg


Thông tin cá nhân
Họ và tên: Francisco Javier González Urruticoechea
Ngày sinh: 17 Tháng Mười Một 1952
Nơi sinh: San Sebastián, Tây Ban Nha
Ngày mất: Ngày 24 tháng 5 năm 2001 (48 tuổi)
Nơi mất: Barcelona, Tây Ban Nha
Chiều cao: 1,82 m
Vị trí: Thủ môn

Francisco Javier González Urruticoechea (sinh ngày 17 Tháng Mười Một 1952 tại San Sebastián, Guipúzcoa - Qua đời ngày 24 tháng 5 năm 2001 tại Barcelona), Aka Urruti, Là một thủ môn trong những thủ môn vĩ đại nhất trong lịch sử của câu lạc bộ.

Ông là một thủ môn rất xuất sắc với phản xạ nhanh nhẹn, sự gan lì khi đối mặt với các tiền đạo của đối phương.Gia nhập Barca năm 1981 từ Espanol . Với tài năng của mình Urruti nhanh chóng chiếm được cảm tình của người hâm mộ với những pha bắt bóng hết sức ngoạn mục. Tại Barca: Urruti cũng đã đạt được danh hiệu Zamora giành cho thủ môn xuất sắc nhất của mùa giải. Cùng với Steve Archibald và Bernd Schuster, Ông là một thành viên nổi bật của đội dưới thời huấn luyện Terry Venables
URRUTI_EN_ACCIx1.jpg
Năm 1986 ông cùng với Barca góp mặt ở trận đấu cuối cùng tại Cup C1 trước đối thủ Steau Bucarest đến từ Rumani, mặc dù được thi đâu trên đất TBN nhưng cuối cùng Urruti và các đồng đội vẫn phải chấp nhận thất bại cay đắng trên chấm phạt đền, đó có lẽ là thất bại đáng quên nhất trong sự ngiệp của Urruti.

Sự nghiệp quốc tế

Urruti chơi năm lần cho Tây Ban Nha, và là một thành viên của đội tại các giải đấu lớn như: World Cup 1978, 1982 và 1986, Euro 1980.
Trận đấu đầu tay của ông là trận giao hữu với Na Uy, Vào ngày 29 Tháng Ba 1978, tại Gijón. Tuy nhiên trong suốt quãng thời gian lên tuyển ông luôn chỉ đóng vai trò dự bị lần lượt cho Arconada và Zubizarreta. Urruti cũng chơi hai lần cho đội tuyển xứ Basque

Ngày tháng năm 2001, ông qua đời trong một tai nạn đường bộ ở gần Barcelona, lúc chỉ là 48

Danh hiệu

FC Barcelona

UEFA Cup Winners 'Cup: 1981-1982
Tây Ban Nha League: 1984-1985
Cúp bóng đá Tây Ban Nha: 1982-1983, 1987-1988
Siêu Cup Tây Ban Nha: 1983
Tây Ban Nha League Cup: 1982-1983, 1985-1986

Cá nhân

Don Balón: 1980-1981
Zamora Trophy: 1983-1984

Chuyên nghiệp

Năm - Câu lạc bộ - Trận (số bàn thắng)

1969-1972 San Sebastián
1972-1977 Real Sociedad 066 0(0)
1977-1981 Español 120 0(0)
1981-1988 FC Barcelona 120 0(0)

Đội tuyển quốc gia

1974: Tây Ban Nha nghiệp dư 2
1979: Tây Ban Nha U23 2 (0)
1978-1980: Tây Ban Nha 5 (0)
1979-1980: Euskadi XI 2 (0)
1980-1981: Tây Ban Nha B 5 (0)
 
Sửa lần cuối:

slayer

Juvenil A
Đầu quân
1/12/09
Bài viết
205
Được thích
1
Điểm
18
Barça đồng
0
László Kubala - Cầu thủ xuất sắc nhất TK 20 của Barcelona !

Đã từ rất lâu tôi trăn trở và muốn viết về ông :

CH0.4838246_1_1.jpg

László Kubala Stecz còn được gọi là Kubala Stécz László, hoặc Ladislav "Laci" Kubala . Ngày ra đời của một thiên tài bóng đá : 10 tháng 6 năm 1927

Ông đã từng chơi cho ba đội tuyển quốc gia khác nhau : Tiệp Khắc, Hungary và Tây Ban Nha, cũng như Đội tuyển những ngôi sao của Châu Âu và ĐT Catalan.
Trong suốt những năm 1950 ông là một ngôi sao hàng đầu , là thủ lĩnh của FC Barcelona thành công vang dội . Trong suốt sự nghiệp của mình chơi cho các câu lạc bộ ông đã ghi 274 bàn trong 345 trận . Năm 1999, trong lễ kỷ niệm 100 năm của câu lạc bộ, đã có 1 cuộc thăm dò , kết quả là : Ông được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử CLB .
Khi giải nghệ sự nhiệp cầu thủ, ông bắt đầu một sự nghiệp làm huấn luyện viên. Ông đã 2 lần là huấn luyện viên của FC Barcelona , ông cũng dẫn dắt cả hai đội : ĐTQG Tây Ban Nha và Olympic Tây Ban Nha .


EG0.4840323_1_1.jpg

Tượng đài vĩ đại nhất của Blaugrana - Ladislav " Laci " Kubala .​

Bảng vàng thành tích :

Full name : László Kubala Stecz
Vị trí : Tiền vệ công / Tiền đạo ( AM / FC )
Chiều cao : 1m76

Club đã qua : Năm / Số trận / Bàn thắng

1944 :Ganz TE / 9 / 2 goals
1945–1946 :Ferencváros TC / 49 / 27goals
1946–1948 :ŠK Slovan Bratislava / 33 / 14 goals
1948–1949 :Vasas SC / 20 / 10 goals
1949–1950 :pro Patria
1950 :Hungaria
1951–1961 :FC Barcelona / 186 / 131 goals
1963–1965 :RCD Espanyol / 29
1966–1967 :FC Zürich

ĐT QG :

1946–1947 : Tiệp Khắc / 6 / 4 goals
1948 : Hungary / 3
1953–1961 : Spain / 19 / 11 goals
1953 : Europe XI / 1 / 2 goals
1954–1963 : Catalan XI / 4 / 4 goals

Sự nghiệp HLV :

1961–1963 : FC Barcelona
1963–1966 : RCD Espanyol
1966–1967 : FC Zürich
1968 : Toronto Falcons
1968–1969 : Cordoba CF
1969–1980 : Spain
1980–1982 : FC Barcelona
1982–1986 : Al-Hilal
1986 : Real Murcia
1987–1988 : CD Málaga
1988–1989 : Elche CF
1992 : Spain Olympic Team
1995 : Paraguay

Danh hiệu :

Inter-Cities Fairs Cup: 1957 -1958 , 1959 -1960
Latin Cup : 1960
La Liga : 1951-52, 1952-53, 1958-59, 1959-60
Copa del Generalísimo: 1951, 1952, 1953, 1957, 1959
Copa Eva Duarte: 1952, 1953


1. Thời thơ ấu và trai trẻ

Kubala được sinh ra ở Budapest - Thủ đô Hungary . Mẹ ông là người Tiệp Khắc gốc Hungary làm công nhân trong 1 nhà máy , trong đó cha ông là người Tiệp Khắc gốc Ba Lan - một thợ nề , cả hai đến từ Bratislava ( Tiệp Khắc cũ ) .
Ông bắt đầu sự nghiệp của mình như là một cầu thủ tập sự với Ganz TE, 1 CLB hạng 3 ở Hungary.
Ở tuổi 11, ông đã thường xuyên chơi trong đội với những cầu thủ lớn hơn ông từ 3-5 tuổi. Năm 18 tuổi, ông đã ký hợp đồng chơi cho Ferencváros TC nơi có một đồng đội nổi danh khác là Sándor Kocsis. Năm 1946 ông chuyển đến Tiệp Khắc để tránh nghĩa vụ quân sự gia nhập CLB SK Slovan Bratislava. Năm 1947 Kubala kết hôn với Anna Viola Daučík - con gái của huấn luyện viên SK : Ferdinand Daučík. Năm 1948 ông trở về Hungary, một lần nữa để tránh phải gia nhập quân đôi và tham gia CLB Vasas SC.

2. Những tháng ngày tị nạn

Tháng giêng năm 1949 Hungary đã trở thành một nước cộng sản, Kubala đã rời khỏi khỏi đất nước trong một xe tải. Ban đầu, ông đã tới Đại Sứ Quán Mỹ tại Áo và sau đó chuyển sang Italia. Tại đó ông thi đấu một thời gian ngắn cho Pro Patria. Trong tháng 5 năm 1949, ông cũng đã đồng ý chơi cho Torino , trong trận đấu gặp lại SL Benfica rất may mắn ông ra muộn lỡ chuyến bay khi con trai ông bị bệnh. Trên đường trở về từ Lisbon máy bay chở đội bóng Torino đã rơi vào những ngọn đồi ở Superga, 31 người trên máy bay tử nạn.

Trong khi đó, Liên đoàn bóng đá Hungary buộc tội ông đã vi phạm hợp đồng, rời khỏi đất nước mà không được phép và không làm nghĩa vụ quân sự. FIFA hậu thuẫn cho họ và áp đặt lệnh cầm thi đấu quốc tế trong một năm . Trong tháng 1 năm 1950 Kubala cùng với Ferdinand Daučík là huấn luyện viên thành lập đội tuyển Hungary. ĐT này được tạo ra từ những người tị nạn trốn tù cộng đồng Đông Âu. Trong mùa hè năm 1950 đội đến Tây Ban Nha để chơi một loạt các giao hữu với với các ngôi sao Madrid, ĐT Tây Ban Nha và RCD Espanyol.

Trong những trận đấu này Kubala đã được phát hiện tài năng bởi cả Real Madrid và Josep Samitier chuyên gia săn lùng tài năng của Barcelona. Kubala đã được đề nghị ký một hợp đồng với Real nhưng bị thuyết phục bởi Samitier để gia nhập Barcelona. Samitier đã sử dụng các mối quan hệ của mình trong chế độ Franco để giúp thu xếp vụ chuyển nhượng này . Trong giữa Chiến tranh Lạnh, Kubala đã đào thoát sang phương Tây và được sử dụng để tuyên truyền của chế độ Franco , thực hiện một bộ phim : Tìm kiếm ngôi sao cho hòa bình trong đó có Kubala và Samitier diễn xuất .


3. Sự nghiệp huy hoàng trong mầu áo FC Barcelona

LO0.4838244_1_1.jpg
1Z0.4838243_1_1.jpg


Kubala ký hợp đồng chơi cho Barcelona vào ngày 15 Tháng Sáu 1950 và là một phần của thỏa thuận cho phép Daučík Ferdinand trở thành huấn luyện viên Barcelona.
Do lệnh cấm thi đấu của Fifa nên Kubala đã không thể tham gia mùa giải La Liga đầu tiên của mình cho đến năm 1951. Tuy nhiên ông được phép chơi giao hữu và trong hai trận liên tiếp gặp Frankfurter SV, Barcelona thắng 4-1 và 10-4, ông lập tức tỏa sáng ghi được 6 bàn và kiến tạo 5 đường chuyền. Ông cũng chơi tại Copa del Generalísimo và giúp các câu lạc bộ giành được cúp năm 1951.

Mùa giải La Liga đầu tiên của mình 1951-1952, Kubala ghi được 26 bàn trong 19 trận đấu. Ấn tượng nhất là 7 bàn thắng trong trận thắng 9-0 trước Sporting de Gijón, 5 bàn thắng vào lưới Celta de Vigo và hat-trick trước Sevilla và Racing de Santander. Ông cũng ghi bàn trong trận chung kết Copa del Generalísimo , Barcelona đánh bại Valencia 4-2. Mùa giải này Barca thành công rực rõ . Huấn luyện viên Daucik và Kubala cùng với những danh thủ khác như Emilio Aldecoa, Velasco, Joan Segarra và Ramallets đã truyền cảm hứng cho đội bóng để giành chiến thắng liên hoàn : La Liga, Copa del Generalísimo, Latin Cup và Copa Eva Duarte. Không rõ vì lý do gì mà Kubala bỏ lỡ mùa giải 1952-1953 và đe dọa sẽ kết thúc sự nghiệp cầu thủ . Tuy nhiên ông đã hồi phục thần kỳ và quay trở lại để giúp Barcelona vô địch cả La Liga và Copa del Generalísimo. Ông lại ghi bàn trong trận chung kết Copa del Generalísimo giành chiến thắng 2-1 trước Athletic Bilbao.

DU0.4840431_1_1.jpg

Năm 1958 Kubala thuyết phục hai người đồng hương Hungary tị nạn : Sándor Kocsis , Zoltán Czibor tham gia với mình ở Barcelona .Cùng với huyền thoại Luis Suárez và Evaristo, họ tạo thành hạt nhân của đội bóng chiến thắng bằng một cú double : La Liga / Copa del Generalísimo vào năm 1959 và một La Liga / Fairs Cup năm 1960. Tuy nhiên Kubala không được HLV Helenio Herrera yêu thích và mất chỗ đứng của mình trong CLB. Kết quả là ông đã bỏ lỡ cúp châu Âu 1960 , trận bán kết lượt về với Real Madrid CF , Barcelona đã thua với tổng tỷ số 6-2 . Kết quả đã thấy Herrera bị sa thảih và Kubala trở lại đội hình chính thức. Tại Cup C1 châu Âu năm 1961 , Barcelona đã trở thành câu lạc bộ đầu tiên đánh bại được Real Madrid . Lấy cảm hứng từ Kubala họ giành được chiến thắng 4-3 chung cuộc và lọt vào chung kết thua Benfica 3-2.
Kubala đã kết thúc sự nghiệp cầu thủ lẫy lừng vào năm 1961 và bước đầu đã trở thành một huấn luyện viên đội trẻ ở Barcelona trước khi trở thành huấn luyện viên của CLB cho mùa bóng 1962-1963. Nhưng sau khi bị mất Cúp Hội chợ vào tay Red Star Belgrade ông đã bị cách chức.


4. Sự nghiệp quốc tế

Kubala chơi cho ba đội quốc tế khác nhau - Tiệp Khắc, Hungary và Tây Ban Nha. Trong khi chơi cho SK Slovan Bratislava, ông khoác áo 6 lần và ghi được 4 bàn cho Tiệp Khắc những năm 1946 và 1947. Sau khi trở về Budapest năm 1948, ông chơi 3 trận cho Hungary nhưng không ghi được bàn thắng nào . Sau khi được nhập quốc tịch Tây Ban Nha ông đã chơi 19 trân và ghi được 11 bàn thắng cho ĐTQG Tây Ban Nha ( 1953 và 1961 ).
Điểm nổi bật nhất trong sự nghiệp quốc tế của ông đã được một hat-trick cho Tây Ban Nha chiến thắng trước Thổ Nhĩ Kỳ 3-0 , tháng 11 năm 1957 Mặc dù đang chơi cho ba nước khác nhau, Kubala chưa bao giờ được chơi 1 trận chung kết của một giải quốc tế lớn. Ông có trong thành phần đội tuyển Tây Ban Nha dự Cúp bóng đá thế giới 1962 cùng với Alfredo Di Stéfano, đen đủi là ông lại bị chấn thương.

LF0.4840430_1_1.jpg


Kubala và kình địch Di Stefano​

Cũng như việc chơi cho ba đội quốc tế khác nhau, Kubala triệu tập cho Đội tuyển các ngôi sao Châu Âu và ĐT Ngôi sao của Catalan.
Ngày 21 tháng 10 năm 1953, Anh thành lập ĐT ngôi sao Châu Âu tại sân vận động Wembley để kỷ niệm 90 năm của FA và Kubala tỏa sáng ghi 2 bàn trong trận đấu có tỷ số là 4-4. Ông cũng đã chơi 4 trận và ghi 4 lần cho ĐT Catalan. Vào ngày 26 Tháng 1 1955 trong một trận gặp Bologna tại Les Corts ( sân cũ của Barcelona ) , ông chơi cùng kình địch Alfredo Di Stéfano trong ĐT Ngôi sao của Catalan thắng 6-2 với hai bàn thắng của Kubala và một từ Di Stéfano.
Trận đấu cuối cùng trong cuộc đời của ông trong ĐT Ngôi sao của Catalan ngày 04 tháng 3 năm 1993 tại Sân vận động Montjuïc để đấu với ĐT Ngôi sao quốc tế. Ông chỉ chơi 10 phút trong trận đấu ở tuổi 65.


5. Sự nghiệp HLV

LC0.4840429_1_1.jpg



Sau khi rời Barcelona, Kubala chấp nhận một hợp đồng như là một cầu thủ / huấn luyện viên với RCD Espanyol cùng hợp tác với Alfredo Di Stéfano. Trong thời gian của mình tại RCD Espanyol ông tặng La Liga đầu tiên cho con trai của mình - Branko. Năm 1966 ông gia nhập FC Zurich, một lần nữa là cầu thủ / huấn luyện viên, cuối cùng CLB của ông lọt vào CK và thua Celtic. Năm 1967 Kubala đã đi đến Canada làm HLV cho CLB Toronto Falcon , ông rất vui mừng khi đoàn tụ gia đình với Yanko Daucik và Branko con trai của ông.

Đến cuối năm 1968 ông đã quay trở lại La Liga, và sau một thời kỳ ngắn ngủi ở Cordoba CF, ông trở thành huấn luyện viên của ĐT Tây Ban Nha. Kubala đã kết thúc sự vắng mặt của TBN sau 12 năm khi ông đã dẫn dắt đội bóng đến World Cup 1978 nhưng ông không thể đưa ĐT vượt qua vòng bảng. Ông cũng dẫn dắt ĐT TBN tại Euro 80 và một lần nữa lại xách va li về nước sau vòng đấu bảng.

Năm 1980 ông trở về Barcelona làm HLV cho một thời kỳ ngắn ngủi thứ hai trước khi chuyển đến Saudi Arabia nơi ông ký hợp đồng với Al-Hilal. Sau đó ông còn làm HLV cho 3 CLB khác tại La Liga trong đó giúp CD Málaga vô địch Segunda División năm 1988.Thành tích ấn tượng nhất của ông là dẫn dắt ĐT Olympic Tây Ban Nha đoạt huy chương vàng bóng đá nam tại Thế vận hội năm 1992. Lân cuối cùng người ta nhìn thấy ông trên băng ghế chỉ đạo là huấn luyện ĐT Paraguay vào năm 1995 .


Kết lại :


Kubala là huyền thoại với vô số phẩm chất tuyệt vời , ông có một kỹ năng lừa bóng riêng biệt kết hợp cùng tốc độ kinh người . Kubala luôn giữ sự bình thản đáng ngạc nhiên trong tìng huống và tạo ra một thứ quyền năng tối thượng trong những đợt tấn công . Ngoài ra, ông còn là một trong những chuyên gia sút phạt vĩ đại nhất trong lịch sử , có thể vẽ những đường cong kỳ vĩ cùng trái bóng với tốc độ cao và cực kỳ chính xác !

Là 1 cule' mà không biết đến Kubala không khác gì một người Mỹ không biết đến Whashington , 1 người Pháp không biết đến Napoleon là ai hết cả !

Huyền thoại của những huyền thoại : Kubala đã mãi mãi ra đi vào ngày 17 tháng 5 năm 2002 tại TP Barcelona - nơi đã chào đón một thiên tài và giữ lại ông vĩnh viễn .Chắc một điều ông đã vô cùng mãn nguyện với chính mình !

Hãy nhớ ngày này để tặng ông 1 bó hoa , chúng ta mãi mãi không bao giờ quên ông .

YE0.4840428_1_1.jpg



Kubala - một tượng đài bất tử !!!



Visca el Catalunya !!!​
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Josep Escola
ESCOLAretrat.jpg


Thông tin cá nhân
Ngày sinh: 28 tháng tám năm 1914
Nơi sinh: Barcelona, Catalonia, Tây Ban Nha
Vị trí: Tiến vệ

Josep Escola Segalés (sinh ngày 28 tháng Tám năm 1914, tại Catalonia - Barcelona - mất 07 tháng ba năm 1998), cũng được gọi là José Escola, Là một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Tây Ban Nha , ông dành phần lớn sự nghiệp của mình tại FC Barcelona. Sau khi gi ải nghệ năm 1948, ông trở thành HLV của các CLB CF Badalona, CE Sabadell FC, CD Castellón và Levante UD.

Escola tham dự trận đấu đầu tiên tại Barca là vào ngày 2 tháng 12 năm 1934 trong trận thắng 4 – 0 trước Arenas Club de Getxo tại Les Corts. Trong mùa giải đầu tiên của ông với câu lạc bộ, ông đã giúp họ giành được Campionat de Catalunya, cùng vói các đồng đội như: Domènec Balmanya, Joan Josep Nogués và Enrique Fernández ông đã thêm một lần nữa đạt được danh hiệu trên và đạt được Copa de España cuối năm 1936

Trong mùa sau, 1936-1937, bóng đá quốc gia đã bị đình chỉ vì Nội chiến Tây Ban Nha Escola và Balmanya ký cho FC Sète của Pháp
escola_mov.jpg

Sau khi Nội chiến Tây Ban Nha kết thúc năm 1939; chế độ độc tài Franco áp đặt lệnh cấm những nguời sống lưu vong trở lại TBN, tuy nhiên chủ tịch của Barca lúc bấy giờ là Enrique Piñeyro đã vận động các cầu thủ sống lưu vong trở lại câu lạc bộ . Trong mùa giải đầu tiên của họ trở lại, Barca, với Joan Josep Nogués bấy giờ là huấn luyện viên, suýt bị xuống hạng sau khi chiến thắng trong trận play-off với Real Murcia. Tuy nhiên sau đó clb lại đoạt được chức vô địch Copa del Generalísimo

Trong những năm cuối cùng của mình tại câu lac bộ Escola đã giúp Barca giành chiến thắng La Liga hai lần, dưới sự huấn luyện viên Josep Samitier vào năm 1945 và dưới sự huấn luyện viên Enrique Fernández vào năm 1948.

Sự nghiệp quốc tế

Giữa 1931 và 1948, Escola cũng chơi 10 trận và ghi hai bàn cho tuyển xứ Catalan XI. Một trong hai bàn thắng của ông đã được ghi trong chiến thắng 2-1 chống lại Brazil tại Les Corts vào ngày 17 tháng 6 năm 1934. Ông cũng chơi hai lần cho Tây Ban Nha, Cả hai lần đều trước Bồ Đào Nha. với cùng tỉ số là 2-2 và. Trận đấu đầu tiên vào ngày 12 Tháng 1 năm 1941. Trận thứ hai diễn ra vào ngày 11 tháng 3 1945.

Danh hiệu

FC Barcelona
La Liga Champions: 1945, 1948
Copa de España / Copa del Generalísimo 1942, 1936:
Địa Trung Hải League: 1937
Campionat de Catalunya: 1934-1935, 1935-1936
Copa de Oro Argentina: 1945

Chuyên nghiệp

Năm - Câu lạc bộ - Trận (số bàn thắng)

1934-1937: FC Barcelona - 37 (31)
1937-1939: FC Sète - X (X)
1940-1948: CF Barcelona - 115 (55)

Đội tuyển quốc gia

1931-1948: Catalan XI - 10 (2)
1941-1945: Tây Ban Nha - 2 (1)

Các đội quản lý

19xx-xx: CF Badalona
1951-1952: CE Sabadell FC
1954-1955: CD Castellón
19xx-xx: Levante UD
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Ferran Olivella
OLIVELLAretrat.jpg

Thông tin cá nhân
Họ và tên Ferran Olivella Pons
Ngày sinh 22 tháng 6 năm 1936 (22 tháng sáu năm 1936) (73 tuổi)
Nơi sinh El Poble-sec, Tây Ban Nha
Vị trí Trung vệ


Ferran Olivella sinh ngày 22 tháng 6 năm 1936 được biết đến như là một trong những đội trưởng vĩ đại nhất trong lịch sử của CLB, với hơn 500 trận đấu khoác áo Barca.
Thi đấu ở vị trí hậu. Ông gia nhập Barca vào năm 1956 và thi đấu tại đây đến năm 1969. Trong 13 năm đó ông ra sân tất cả 500 trận và hiện đang là một trong những cầu thủ khoác áo Barca nhiều nhất mọi thời đại.
olivella_mov.jpg

Ở mùa giải đầu tiên dưới quyền HLV Domenec Banmalya ông ra sân trong 42 trận. Cùng với Verges, Gensana và Sb ông là một trong những nhân tố không thể thiếu của hàng phòng ngự Barca lúc bấy giờ. Trong những năm 1963 -1964 ông là thủ lĩnh của Barca.

Ngoài sự ngiệp cầu thủ khá lừng lẫy tại Barca ông cũng có được những thành công nhất định ở cấp đội tuyển. Với tư cách là đội trưởng đội tuyển TBN vô địch Euro 1964.

CLB Chuyên nghiệp

Năm Đội Apps† (Số bàn thắng)†

1953-1956 España
1956-1969 Barcelona 215 (1 )

Đội tuyển quốc gia

1955 Tây Ban Nha Amateur 3 (0)
1956-1958 Tây Ban Nha B 6 (0)
1957-1965 Tây Ban Nha 18 (0)

Danh hiệu

2 Tây Ban Nha League: 1958 --1959, 1959 --1960.
4 Cup bóng đá TBN: 1957, 1959, 1963, 1968.
1 Euro với Tây Ban Nha chọn: 1964.
1 Inter-Cities Fairs Cup: 1955-1958, 1958-1960, 1965-1966
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Salvador Sadurní
SADURNIretrat.jpg

Thông tin cá nhân
Họ và tên:Salvador Sadurní Urpí
Năm sinh: 03 tháng 04 năm 1941
Quốc tịch: TBN
Vị trí: Thủ môn

Salvador Sadurní Urpí (sinh ngày 03 tháng 4 năm 1941 tại Tarragona) Là một cựu thủ môn bóng đá Tây Ban Nha người được coi là sự kế thừa cho Ramallets vĩ đại.

Gia nhập Barca năm 1961 lúc chỉ mới 20 tuổi Sadurni luôn nhận được sự ủng hộ từ người hâm mộ với một phong độ hết sức ổn định, cũng như kĩ năng bắt bóng điêu luyện. Ông thi đấu cho Barca 464 trận từ năm 1961 – 1976.
Trong khoảng thời gian thi đấu cho Barca, Sadurni giành được 1 chức vô địch Liga, 3 Copa De Rey, 1 Ferias Cup.

Ngoài ra ông cũng đã từng 3 lần giành được danh hiệu Zamora giành cho thủ môn xuất sắc nhất giải vào các mùa bóng (1968-69, 1973-74, 1974-75), ông cũng là người hùng trong trận CK cup TBN vào năm 1968.
n_f_c_barcelona_historicos-526632.jpg

Vào năm 1976 Sadurni quyết định từ giả clb sau khi không nhận được sự tin tưởng của HLV Weisweiler mặc dù thời điểm đó phong độ cũng như thể lực của ông vẫn đủ sức để thi đấu ở đỉnh cao thêm nhiều năm.
Saduri tham dự trận đấu cuối cùng trong màu áo Barca vào ngày 1 – 9 – 1976 (trận đấu chia tay ông ) với đối thủ Stade Rimis, trận đấu mà Barca đã giành thắng lợi với tỉ số 2 -1.

Sự nghiệp

- Fc Barcelona: 1961-1976
- trận đấu: 464

Thành tích:

1Spanish League
3 Tây Ban Nha Cup (1962/63, 67/68, 70/71)
1 Ferias Cup (1965/66)
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Mariano Martin
MARIANO_MARTxN1.jpg


Thông tin cá nhân
Tên: Mariano Martín Alonso
Sinh ngày: Ngày 20 tháng 10 năm 1919
Mất: 9 tháng 9 năm 1998
Quốc tịch: TBN
Vị trí: Tiền đạo


Mariano Martin sinh ngày 20 tháng 10 năm 1919 tại Duenas – Palencia - Tây Ban Nha mất ngày 9 tháng 9 năm 1998 tại Cabrils - Barcelona. Ông thi đấu cho Barca trong giai đoạn 1939 – 1946

Ông được xem là một trong những tiền đạo hay nhất trong lịch sử của Barca. Tốc độ, sức mạnh là những gì tạo nên thương hiệu của Mariano Martin, trong bảy muà bóng của mình tại đây ông chơi 150 trận và ghi được 124 bàn thắng, trung bình 0,82 bàn mỗi trận một hiệu suất cực kì đáng nể; . Tại mùa giải 1942 – 1943 ông đã đạt được danh hiệu Pichichi sau khi ghi được 30 bàn thắng.

Trong thời gian thi đấu của mình tại Barca ông giúp cho CLB giành được 2 chức vô địch Liga vào các mùa giải 1944 – 1945 ; 1947 – 1948.
MARIANO_MARTxN_x2x1.jpg

Về sau những chấn thương ở các trận đấu giao hữu đã khiến ông không còn giữ được phong độ như xưa và ông buộc phải chia tay câu lạc bộ vào năm 1948 sau bảy mùa giải gắn bó.

Martin, sau đó gia nhập Gimnastic Tarragona ông chơi ở đây 2 năm trước khi
chuyển đến gia nhập UE Sant Andreu và kết thúc sự nghiệp tại đây.

Câu lạc bộ

Pena Font de Barcelona: --1936.
UE Sant Andreu : 1936--1939.
FC Barcelona: 1939--1948.
Gimnastic Tarragona: 1948--1950.
UE Sant Andreu : 1950--1951.

Danh hiệu:

2 Liga : Mùa 1944/45 và 1947/48 với FC Barcelona.
1 Copa De Rey: 1942Với FC Barcelona.
1 Copa Eva Duarte: 1948Với FC Barcelona.
1 Pichichi, Mùa giải 1942/43,.
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Joaquim rife Climent
RIFEretrat.jpg

Thông tin cá nhân
Họ tên: Joaquim rife Climent
Ngày /tháng /năm sinh: 04 tháng hai năm 1942
Quốc tịch: TBN
Vị trí: Trung vệ

Joaquim rife Climent (sinh 04 tháng hai năm 1942) là một cựu cầu thủ nổi tiếng người Tây Ban Nha ông từng là đội trưởng của Barcelona, và là một trong những người khoác áo câu lạc bộ nhiều nhất trong lịch sử. Khởi đầu ở vị trí của một cầu thủ chạy cánh tuy nhiên sau đó ông lại tỏ ra hiệu quả hơn ở vị trí trung vệ, ông cùng v ới Torres – Sarduni hình thành một hàng phòng ngự vào loại tốt nhất trong lịch sử của câu lạc bộ.

Ông có tổng cộng 535 trận đấu cho Barca và ghi được 47 bàn thắng. Thi đấu trong 12 mùa bóng cho câu lạc bộ, từ năm 1964 – 1976.
rife_mov.jpg

Sau khi giải nghệ ông trở lại với tư cách là một HLV tại đây ở mùa giải 1978 – 1979; cùng với người đồng đội cũ Torres ông đã giúp Barca đoạt được danh hiệu Recopa of Basilea đầu tiên trong lịch sử.
Tuy nhiên với những kết quả nghèo ở mùa giải tiếp theo Rife đã bị ban lãnh đạo của đội bóng sa thải, người lên thay ông là Helenio Herera.


CLB chuyên nghiệp

1962 – 1963: Gimnastic
1963 – 1976: Barcelona

Đội tuyển quốc gia

1968 - 1970
 

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Guillermo Amor
AMOR.jpg

Thông tin cá nhân
Họ tên:Guillermo Amor
Quốc tịch: TBN
Ngày tháng năm sinh: 04 tháng 12 năm 1967
Vị trí thi đấu: Tiền đạo

Guillermo Amor sinh ngày 4 tháng 12 n ăm 1967 tại Benidorm – Alicate – TBN ông là một cựu cầu thủ bóng đá nổi tiếng của TBN .

Guillermo Amor chính là sản phẩm từ lò đào tạo Lamasia trong những năm 80, ông là một trong những tài năng trẻ sáng giá nhất của câu lạc bộ lúc bấy giờ; nhờ sự thăng tiến vượt bậc của mình Amor đã được đưa lên đội chính của Barca vào năm 1988. Trong thập niên 90 của thế kỉ XX ông là một trong những thành viên của Dream Team dưới sự dẫn dắt của Johan Cruyf huyền thoại đoạt được vô số danh hiệu như: 5 chức vô địch Liga vào các năm 1991, 1992, 1993, 1994 v à 1998; 1 chức vô địch Cup C1 châu Âu vào năm 1992; 3 cup nhà vua vào các năm 1990, 1997 v à 1998 ngoài ra ông cũng là chủ nhân của 4 siêu cup TBN
n_f_c_barcelona_la_historia-936501.jpg

Trong suốt 11 mùa giải thi đấu tại câu lạc bộ ông ra sân trong 421 trận (đứng thứ tư trong danh sách những cầu thủ khoác áo Barca nhiều nhất.

Năm 1988 ông chuyển đến Fiorentina kết thúc 11 năm thi đấu cho Barca

Đội tuyển quốc gia

Ông thi đấu cho đội tuyển TBN 37 trận trong khoảng thời gian từ 1990 - 1998, trong đó có tham dự 2 kì World Cup 1994, 1998 v à Euro 1992, 1996.

CLB chuyên nghiệp

Fc Barcelona: 1988-1998
Số bàn thắng: 89

Thành tích:

1 Cúp bóng đá châu Âu (91/92)
2 Siêu cúp châu Âu (1992 và 1997)
2 Cup Winners Cup (1988/89 và 1996/97)
5 Leagues (1990/91, 91/92, 92/93, 93/94 và 97/98)
3 Copa del Rey (1989/90, 96/97 và 97/98)
4 Siêu Cúp Tây Ban Nha (1991, 1992, 1994 và 1996)
2 Copa Catalunya (1990/91 và 92/93
 
Sửa lần cuối:

Click

Mầm non xã
Đầu quân
21/8/09
Bài viết
1
Được thích
0
Điểm
1
Barça đồng
0
Migueli
MIGUELIretrat.jpg

Thông tin cá nhân
Họ và tên Miguel Bernardo Bianquetti
Ngày sinh 19 Tháng Mười Hai 1951 (58 tuổi)
Nơi sinh Ceuta, Tây Ban Nha
Chiều cao 1,83 m (6 ft 0 in)


Miguel Bernardo Bianquetti (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1951 tại Ceuta, là một cựu cầu thủ bóng đá người TBN, người hiện đang chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử của câu lạc bộ với tư cách là cầu thủ có số lần khoác áo Barca nhiều nhất mọi thời đại.

Ông gia nhập Barca vào năm 1973 sau 2 mùa giải thi đấu tại Cadiz. dưới sự giới thiệu của Dominic Balmanya. Ở mùa giải đầu tiên của mình tại Barca ông chỉ thi đấu cho đội 1 trận vì bận phải thực hiện nghĩa vụ quân sự ( có một tình huống hài hứoc là Miguel bị triệu tập ngay sau khi ra mắt trận đầu tiên cho Barca ) thế nhưng một mùa sau ông đã trở thành một nhân vật không thể thiếu của đội bóng chủ sân Nou Cam. tại đây ông luôn là một nhân tố không thể thiếu của đội chủ sân Nou Camd. Sở hửu một nền tảng thể lực tuyệt vời .ông được người hâm mộ gắn với biệt danh “Tarzan”trong suốt 15 năm trời gắn bó với màu áo sọc đỏ xanh, thể hiện qua con số 664 trận khoác áo Barca ( kỉ lục )
migueli_mov.jpg

Trong trận chung kết cup Uefa năm 1979 trước đối thủ Fortuna Düsseldorf, dù bị chấn thương ông vẫn nỗ lực ra sân, sự có mặt của ông đã góp phần giúp Barca đánh bại đối thủ với tỉ số 4 – 3, để lên ngôi vô địch, tại mùa giải 1981 – 1982 ông cùng với các đồng đội một lần nữa giành được danh hiệu danh giá trên, ngoài ra ông còn sở hữu 2 chức vô địch Liga, 4 cup nhà vua và 1 siêu cup TBN. Ông giã từ clb vào năm 1988 sau 15 năm gắn bó.

Sự nghiệp quốc tế

Miguel thi đấu cho đội tuyển TBN 32 trận và ghi được 1 bàn thắng, ông cũng là thành viên của đội tuyển tại WC 1978 và Ero 1980.


Danh hiệu

UEFA Cup Winners 'Cup: 1978-1979, 1981-1982
Tây Ban Nha League: 1973-1974, 1984-1985
Cúp bóng đá Tây Ban Nha: 1977-1978, 1980-1981, 1982-1983, 1987-1988
Tây Ban Nha Siêu: 1983
Tây Ban Nha League Cup: 1982-1983, 1985-1986


Chuyên nghiệp *

Năm - Đội - Trận - (Số bàn thắng)

1971-1973 Cádiz 67 (4)
1973-1988 Barcelona 391 (20)
1971-1988 Tổng cộng 458 (24)

Đội tuyển quốc gia

1975-1976 Tây Ban Nha nghiệp dư 2 (0)
1974-1980 Tây Ban Nha 32 (1)
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Samuel Eto’o Sư tử đen hyền thoại
eto.jpg


Hồ sơ
Họ tên: Samuel Eto’o
Quốc tịch: Cameroon
Nơi sinh: Nikon
Sinh năm: 1981
Vị trí: Trung phong

Samuel Eto’o sinh ngày 10 tháng 3 năm 1981 tại Nikon, Cameroon là cầu thủ bóng đá người cameroon chơi ở vị trí tiền đạo. Anh hiện nắm giữ kỉ lục là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất tại các vòng chung kết Cup bóng đá châu Phi (16 bàn) và là cầu thủ châu Phi ra sân nhiều nhất tại La Liga. Đối với các cổ động viên của Barca Eto’o là một trong những sát thủ dội bom vĩ đại nhất của câu lạc bộ.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Địa ngục Madrid và bệ phóng Mallorca

Samuel Eto’o gia nhập đội B Real Madrid vào năm 1997 lúc chỉ mới 17 tuổi với niềm hi vọng lớn lao được lên chơi ở đội 1 của Real, thế nhưng thật không may cho anh khi ngay ở mùa giải đó CLB bị xuống hạng còn bản thân Eto’o không được thi đấu do không có hộ khẩu Eu và kết quả là ông đã bị đưa cho CLB CD Leganes mượn, sau khi thi đấu cho câu lạc bộ này 30 trận và ghi đựoc 4 bàn thắng ở mùa giải 1997-1998 anh trở lại Madrid, thế nhưng vào tháng 1 năm 1999 lại một lần nữa Eto’o bị đem cho mượn; lần này là tới Espayol nơi anh không hề được ra sân dù chỉ lấy 1 trận, một cuộc sống nay đây mai đó, và quả thực Madrid lúc này đối với Eto’o chẳng khác gì một địa ngục.
10893166-eto.jpg

Mùa giải 1999 – 2000 một lần nữa Eto’o bị Madrid đầy sang Mallorca cho mượn không giống như những lần trước tại đây dưới sự dẫn dắt của HLV Aragones (người mà Eto’o luôn ví như là người cha thứ hai) Eto’o đã vụt sáng và khẳng định được khả năng của mình mặc dù mùa giải đó anh không ra sân nhiều (chỉ 13 trận) nhưng cũng đã kịp ghi những bàn thắng quan trọng đủ khiến Marloca chịu ngồi vào bàn đàm phán với Real để hòng được sở hữu anh, sau đó một bản hợp đồng đã được kí kết giữa Madrid và Mallorca khi mỗi bên sở hữu 50 % giá trị cuả Eto’o; một chương mới trong sự nghiệp của Eto’o bắt đầu và quan trọng hơn là anh đã thoát khỏi địa ngục Madrid và cảnh sống nay đây mai đó.

Trong mùa giải thứ hai của mình tại Mallorca Eto’o ghi được 11bàn thắng và bắt đầu thu hút sự chú ý tại Laliga. Chứng kiến phong độ của Eto’o chủ tịch Mallorca Mateo Alem đã nói: “Tôi và người hâm mộ rất hài lòng với bản hợp đồng này! Anh ta quả là một cầu thủ xuất sắc, một ngôi sao thực sự.”

Đối với Eto’o những ngày tháng tăm tối ở Madrid đã kết thúc. tại Mallorca anh đã cảm nhận được những hương vị đẹp đẽ mà bóng đá mang lại; tại đây anh được chăm sóc tốt, được người hâm mộ đanh giá cao, và quan trọng nhất là được thoát khỏi một cuộc sống vô định.

Năm 2003 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của Eto’o khi lần đầu tiên anh giành được một danh hiệu ở cấp câu lạc bộ; đó là chiếc cup Copa De Rey; trong trận chung kết Mallorca đã vượt qua Recreativo với tỉ số 3-0 với một cú đúp của Eto’o. Chính nhờ thành tích ấn tượng đó mà Eto’o đã lọt được vào mắt xanh của gã khổng lồ xứ Catalant đội bóng đang tìm kiếm người thay thế Patrick Kluivert.
Một bản hợp đồng đã được kí kết giữa ba bên; cuối cùng Eto’o là người của Barca với mức chuyển nhượng 24 triệu Euro, ban đầu Perez chủ tịch Real lúc bấy giờ muốn mua lại toàn bộ quyền sở hữu Eto’o rồi chỉ đem cho Barca mượn thế nhưng lời đề nghị hấp dẫn của Barca đã khiến ông thay đổi quyết định, có lẽ Perez sẽ chẳng bao giờ ngờ rằng Eto’o cầu thủ đã bị Ông ruồng bỏ sau này sẽ trở thành chân sút xuất sắc nhất Liga và là nỗi ác mộng của Real.

Eto’o rời Mallorca với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của đội bóng này tại Liga với 54 bàn thắng.

Barcelona: Lên tầm thế giới


Eto’o ra mắt Barca vào ngày 29 tháng 8 năm 2004 trong trận đấu với Racing santader tại khuôn khổ La Liga, nếu như lúc trước ở Mallorca Eto’o chỉ là một cầu thủ tiềm năng thì tại Barca anh đã trở thành một siêu sao thực sự, những phẩm chất tối ưu nhất của anh đã được phát tác, chiếc áo của Barca không hề rộng so với tài năng của anh, mặc dù thi đấu với một loạt siêu sao hàng đầu lúc bâý giờ nhưng Eto’o vẫn luôn biết cách làm mình toả sáng. Anh cùng với Ronaldinho tạo thành một cặp bài trùng tấn công xuất sắc giúp Barca đạt được những danh hiệu cao quý, mùa giải đó những đường chuyền của Ronaldinho và các bàn thắng của Eto’o chính là chất xúc tác để đội bóng chủ sân Nou Cam giành được danh hiệu vô địch Liga lần thứ 17 sau 5 năm chờ đợi, bản thân Eto’o ghi được 24 bàn thắng; một khởi đầu hết sức ấn tượng.Thế nhưng một sự cố đã xảy ra: Trong lúc cao hứng ở buổi lễ ăn mừng chiến thắng tại sân Nou Camp, tiền đạo người Cameroon đã buột miệng hét vào Micro: “Này bọn ngốc Real! Hãy tới chúc mừng chức vô địch của ta đi” Mặc dù ngay sau đó, Eto'o đã tổ chức một buổi họp báo để công khai xin lỗi CLB Real song Uỷ ban chống bạo lực của Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha vẫn quyết định điều tra vụ scandal này, kết quả là Eto’o phải nộp phạt 12000 Euro.
"Tôi không cố ý xúc phạm Madrid, CLB đã mang tôi tới châu Âu và giúp đỡ tôi trong những ngày đầu tiên của sự nghiệp. Đó chỉ là một lần lỡ lời và tôi thật sự rất tiếc", Eto'o lên tiếng xin lỗi trên tờ Marca.
Phó chủ tịch của Real, ông Emilio Butragueno tuyên bố CLB chấp nhận lời xin lỗi này nhưng Liên đoàn bóng đá TBN vẫn cho rằng nên có một án phạt đối với Eto'o để giúp các cầu thủ cẩn thận hơn khi phát ngôn.


Mùa giải 2005-2006 tiếp tục đẹp như mơ đối với Eto’o và các đồng đội khi Barca lập được cú đúp vô địch Lìga và Champion League.

Tại Liga họ băng băng về đích trước sự bám đuổi vô vọng của Real Madrid, bản thân Eto’o ghi được 26 bàn thắng và đạt được danh hiệu Pichichi sau khi đã bỏ lỡ một cách đáng tiếc ở mùa giải trước đó.
Tại Champion League anh cũng đóng góp 6 bàn thắng trong con đường đi đến chức vô địch của Barca trong đó có bàn cân bình tỉ số ở trận chung kết với Arsenal.

Eto'o.jpeg


Với thành tích ấn tượng đó Eto’o đã đựoc vinh dự về thứ ba trong cuộc đua đến danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất thế giới cuối năm sau Ronaldinho và Lampard ( Eto’o là cầu thủ thứ hai của châu phi có được vinh dự này ) cũng trong năm đó Eto’o lần thứ 3 liên tiếp trở thành cầu thủ xuất sắc nhất của Châu Phi.

051221085021.w90eo3f20_ronaldinho--messi-y-eto-o-ofrecen-sus-premios-b.jpg


Mùa giải 2006-2007 diễn ra không suôn sẽ với Eto’o khi anh bị dính một chấn thương ngiêm trọng ở đầu gối trong trận đấu với Bremen vào ngày 27 tháng 9 năm 2006 buộc phải nghỉ thi đấu 3 tháng, Eto’o sau đó trở lại tập luyện vào đầu tháng 1 năm 2007.

Ngày 11 tháng 2 năm 2007 Eto’o từ chối vào sân thay người trong trận đấu với Racing. Sau buổi họp báo Rijkaard đã nói: “Anh ấy không muốn vào sân! Tôi không hiểu tại sao? “ những tin đồn dấy lên, những cuộc xích mích giữa Ronaldino và Eto’o hai công thần của Barca xuất hiện dày đặc trên các mặt báo. Ba tháng sau Eto’o cho biết “ Nếu ai đó cảm thấy tôi gây ra vấn đề gì đó ảnh hưởng đến Barca thì tôi sẽ ra đi nhưng như tôi đã nói; tối hạnh phúc ở đây… Các báo chí có thể xuyên tạc những gì họ muốn” Sau đó chủ tịch Barca Joan Laporta đã nhanh chóng huỷ những tin đồn về Eto’o và Ronaldinho.

u1_samuel_eto.jpg


Ngày 17 tháng 10 năm 2007 trong thời gian phục hồi chấn thương mắc phải trong trận đấu giao hữu đầu mùa 2007-2008 với Inter Eto’o đã được nhập quốc tịch TBN, anh trở lại vào ngày 11 tháng 12 năm 2007 trong trận đấu giữa Barca và Deportivo Lacoruna.
Ngày 24 tháng 2 năm 2008 Eto’o lập một hattrick trong trận đấu gặp Levante, kết thúc mùa giải với 16 bàn thắng ghi được.

Mùa giải 2007-2008 kết thúc trong thất bại HLV Rikaard bị ban lãnh đạo Barca sa thải, 2 trụ cột ở những mùa giải trước đó là Ronaldinho và Deco cũng bị đẩy đi với những lí do tương tự, tuy vậy Eto’o thì vẫn trụ lại được mặc dù HLV mới lến nắm quyền Pep Guardiola cũng chẳng ưu gì anh, trong con mắt của Pep cũng như BLĐ Barca Eto’o luôn bị coi thường, chẳng thế mà khi mới lên nhậm chức vị HLV trẻ tuổi người TBN đã nằng nặc đòi đẩy tiền đạo người Cameroon ra khỏi sân Nou Cam, việc Eto’o được ở lại là do Barca đã thất bại trong việc tìm đối tác để mua anh. May mắn thay: nếu không có quyết định bất đắc dĩ đó thì có lẽ Barca cũng như Pep sẽ không bao giờ có thể đi vào lịch sử, bởi vì Eto’o chính là một trong những nhân tố quan trọng nhất trên con đường chinh phục cú ăn 3 ở mùa giải 2008-2009.

5d17b5432f202255fe1af76c563d3fdd.jpg

Bằng kinh nghiệm, sự nỗ lực tuyệt vời cũng như tinh thần chuyên nghiệp tuyệt đối Eto’o đã chơi mùa bóng hay nhất trong sự nghiệp của mình, ghi 36 bàn trên mọi mặt trận trong đó có bàn mở tỷ số hết sức quan trọng trong trận chung kết Champion League trước Mu mà Barca đã thắng với tỉ số 2-0 để đăng quang tại Roma khép lại một mùa giải trong mơ với cú ăn ba huyền thoại.

Thế nhưng chừng đó kì tích cũng không thể cứu vãn được mối tình giữa Barca và Eto’o, khi thị trường chuyển nhượng mùa hè 2009 mở cửa lại một lần nữa Eto’o bị rao bán, tồi tệ hơn khi anh trở thành miếng mồi nhử để Barca chiêu dụ các mục tiêu của họ như Villa hay Ibra, và kịch bản cũng không khác những lần trước khi các cuộc đàm phán về Eto’o đều gặp phải vướng mắc.
Barca lúc này đã tuyên bố Eto’o là món hàng thừa của câu lạc bộ, thậm chí chủ tịch Laporta còn doạ dẫm nếu ở lại Eto’o sẽ phải đối diện với băng ghế dự bị.
Một thực tế không thể chấp nhận được đối với một huyền thoại, một trong những chân sút vĩ đại nhất của câu lạc bộ. Barca đã cạn tình thì Eto’o cũng chẳng còn lí do gì để ở lại.

Rời khỏi TBN

Vào ngày 27 tháng bảy năm 2009 sau một thời gian đàm phán; Eto’o rời Barca sau 6 năm gắn bó và chuyển đến thi đấu cho Inter. Ở một chiều ngược lại, ngôi sao người Thuỵ Điển Zlanta Ibrahimovic chuyển đến Barca theo một thoả thuận giữa 2 bên.
Một chương mới trong sự nghiệp của tiền đạo Cameroon lại bắt đầu còn đối với Barca những trang sử vàng son gắn liền với cái tên Samuel Eto’o đã khép lại.

Nhưng có một điều sẽ mãi không bao giờ thay đổi đó là; trong trái tim của mỗi Cule luôn có chỗ chứa đựng những hình ảnh đẹp đẽ về anh: Samuel Eto’o “sư tử đen huyền thoại”.



CLB chuyên nghiệp

Năm / CLB / Trận / Bàn thắng

1996-1997 Real Madrid B /0/0
1997-2000 Real Madrid /3/0
1997-1998 CD Leganes /28/3
1999 Espanyol /0/0
2000 Mallorca /12/ 6
2000-2004 Mallorca /120/48
2004-2009 Barcelona/232/152




Danh hiệu

Đội tuyển

Vô địch Cúp bóng đá châu Phi: 2000 và 2002
Huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè 2000 tại Sydney, Úc
Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ Cúp bóng đá châu Phi:

Câu lạc bộ

Vô địch bóng đá Tây Ban Nha năm 2005,2006 cùng CLB Barcelona
Vô địch cúp bóng đá Tây Ban Nha 2003
UEFA Champions League 2006, 2009
Siêu cúp Tây Ban Nha:2006,2007

Cá nhân

Cầu thủ xuất sắc thứ ba năm 2005 của FIFA
Quả bóng vàng châu Phi 2003, 2004 và 2005
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất châu Phi năm 2001
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Quini

n_f_c_barcelona_quini-884158.jpg



Hồ sơ cá nhân
Họ tên: Enrique Castro Gonzales
Năm sinh: 23 tháng 9 năm 1949
Nơi sinh: Oviedo – Asturia – TBN
Vị trí: Tiền đạo
Chiều cao: 176cm

Enrique Castro Quini sinh ngày 23 tháng 9 năm 1949 tại Oviedo – Asturia – TBN từng được biết đến với tư cách là một trong những cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất mọi thời đại của La Liga. Ông chính là người đánh dấu cột mốc 3000 bàn thắng cho Barca. Ngoài ra cái tên Quini còn gắn liền với một trong những sự kiện hi hữu nhất của bóng đá thế giới.

Enrique khởi đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ Derportivo Ensidesa vào năm 1966 trước khi chuyển đến Sporting Gijon 2 năm sau đó, tại đây Quini đã vụt sáng và trở thành sát thủ dội bom nguy hiểm nhất của La Liga. Trong quãng thời gian chơi cho Gijon Quini từng 5 lần đoạt được danh hiệu Pichichi và trở thành chân sút vĩ đại nhất trong lịch sử của đội bóng này.

n_f_c_barcelona_quini-884155.jpg

Năm 1980 Quini chuyển đến thi đấu cho gã khổng lồ xứ Catalant khi đã ở vào tuổi 31. Lúc đó nhiều người cho rằng ở độ tuổi bên kia sườn dốc của sự nghiệp Quini khó tạo nên được những thành công trong quá khứ, thế nhưng Quini đã chứng minh điều ngược lại. Anh vẫn thi đấu tốt và vẫn ghi bàn đều đặn; điển hình là 2 danh hiệu Pichichi liên tiếp vào các năm 1981 và 1982.

n_f_c_barcelona_quini-882859.jpg


Đối với các cổ động viên của Barca lúc bấy giờ người duy nhất có thể đem lại cho họ niềm vui trong giai đoạn đó không ai khác ngoài cái tên Quini.

n_f_c_barcelona_quini-882838.jpg

Vào ngày 1 tháng 3 năm 1981 một sự kiện hi hữu trong làng bóng đá thế giới đã xảy ra:
Sau khi kết thúc trận đấu Barca 6 – 0 Hercules (Quini lập một cú đúp) Quini bị hai kẻ lạ mặt bắt cóc.

Một thử thách thực sự cho Fc Barcelona và người hâm mộ của đội bóng này. Trong đó huyền thoại Bernd Schuster là người tỏ ra lo lắng nhất bởi vì đối với Schuster: Quini chính là người bạn thân thiết nhất lúc bấy giờ.

Sau một vài ngày tìm kiếm mà vẫn không biết được tin tức về nơi Quini bị giam giữ câu lạc bộ nhận được một cuộc gọi cuả một cá nhân vô danh hòng đòi 100tr Pesetas để đổi lấy sự tự do của Quini; và phải gửi tại một tài khoản ở Thuỵ Sĩ.

Thứ ba ngày 3 tháng 3 năm 1981 báo chí TBN và Quốc tế liên tục đăng tải những tin tức về việc Barcelona bị những kẻ bắt cóc đòi 100tr Pesetas. Ngày hôm sau phó chủ tịch Barca lúc bấy giờ là ông Nicolau Casaus tuyên bố sẵn sàng chấp nhận điều kiện của những kẻ bắt cóc đưa ra để trả tự do cho Quini, còn với các cầu thủ họ sẵn sàng từ bỏ cả giải đấu miễn là Quini được trở lại.

Các cầu thủ Barca lúc đó xin ban tổ chức Liga thay đổi thời gian thi đấu vì tinh thần bị ảnh hưởng bởi sự kiện trên thế nhưng đã không được chấp thuận; kết quả là trong 6 trận cuối của mùa giải Barca thua 5, hoà 1 và đành phải nhường chức vô địch lại cho Atletico Madrid.

Ngày 25 tháng 3 năm 1981 kế hoạch của hai kẻ bắt cóc bị phá sản. Sự hợp tác của cảnh sát TBN và cảnh sát Thuỵ Sĩ cùng với Ngân hàng truyền thống của Thuỵ Sĩ đã phát hiện được tên của chủ tài khoản đó là: Victor Manuel Diaz Stephen một thợ điện lâu năm sống tại Thuỵ Sĩ; tên này bị bắt trên đường vào sân bay để tẩu thoát sang Pari lúc đó. Vài giờ sau chỗ Quini bị giam giũ được tìm thấy tại một tiệm bán máy đặt tại Calle Jeronio Vicens Zaragoza, 10h tối hôm đó Quini chính thức được giải thoát trước sự vui mừng khôn xiết của gia đình và người hâm mộ.

Sau khi được trả tự do Quini muốn Barca giảm nhẹ mức bồi thường đối với những kẻ bắt cóc, nhưng câu lạc bộ và các cầu thủ không đồng ý, họ quyết định theo đuổi vụ án và yêu cầu 35tr Pesetas tiền bồi thường cho danh hiệu Liga bị mất và 23 năm tù giam đối với những kẻ bắt cóc này.

Ngày 15 tháng 1 những kẻ bắt cóc bị kết án 10 năm tù giam và 5tr Pesetas tiền bồi thường.

Cái ngày 24 tháng 1 năm 1982 Quini đánh dấu bàn thắng thứ 3000 tại giải đấu cho Barcelona trước Club Deportivo Castellon ( thật trùng hợp khi đó chính là câu lạc bộ mà anh đã khởi đầu sự nghiệp).
n_f_c_barcelona_quini-675123.jpg



Với Fc Barcelona Quini dành được hai chức vô địch Copa De Rey vào các năm:
1981 trước đội bóng cũ Sporting Gijon và năm 1983 trước đại kình địch Real Madrid, ngoài ra còn có một League Cup 1983 và một Siêu cup TBN 1984.
n_f_c_barcelona_quini-271958.jpg


n_f_c_barcelona_quini-874911.jpg


Năm 1984 ở độ tuổi 35 Quini quyết định từ giã sự nghiệp bóng đá của mình tại Barca. Trong trận đấu chia tay ông lúc bấy giờ có sự góp mặt của một loạt siêu sao của bóng đá TG như: Maradona, Castro Urkiaga, Nunez, Maceda, Camacho, Cruyff, Kempes, Arconada, Rexach, Urruti….

Một tháng sau đó ông bất ngờ trở lại đê gia nhập đội bóng cũ Sporting Gijon và thi đấu đến năm 1987. Điều thú vị ở chỗ trận đấu cuối cùng của Quini chính là trận gặp Barcelona vào ngày 14 tháng 6 năm 1987.

Các câu lạc bộ

Club Deportivo Ensidesa 1966-68
Sporting Gijon 1968-80
Barcelona 1980-84
Sporting Gijon 1984-87

Danh hiệu

Copa De Rey: 1980 – 1981; 1982 – 1983
League Cup 1982 – 1983
Siêu cup TBN 1984

Cá nhân

Pichichi
1969-70 /20 bàn thắng
1973-74 /24 bàn thắng
1975-76 /21 bàn thắng
1976-77 /27 bàn thắng
1979-80 /24 bàn thắng
1980-81 /20 bàn thắng
1981-82 /26 bàn thắng
 
Sửa lần cuối:

Spain_champion

Los Blaugrana
Đầu quân
23/6/09
Bài viết
1,023
Được thích
53
Điểm
48
Barça đồng
87
Antoni Torres
n_f_c_barcelona_los_jugadores-39619.jpg

Hồ sơ
Họ tên: Torres Antoni
Năm sinh: 29 tháng 7 năm 1943
Nơi sinh: Barcelona/ TBN
Vị trí thi đấu: Trung vệ


Antonio Torres Sinh ngày 29 tháng 7 năm 1943 tại Barcelona, được biết đến với tư cách là một trong những hậu vệ xuất sắc nhất mọi thời đại của Barca. Antoni đã gắn bó toàn bộ sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của mình với Barcelona. Xuất thân từ trường đào tạo cầu thủ của Barca, ông đã từng thi đấu 11 mùa giải tại Nou Camp, với mùa bóng đầu tiên là vào năm 1965-1966.
Trong sự nghiệp của mình Torres đã có 470 lần khoác áo Barcelona, trong đó ông giành được 1 chức VĐQG, 2 cúp Quốc gia và 1 cúp C2 châu Âu.

n_f_c_barcelona_historicos-41713.jpg

Chưa bao giờ được coi là một cầu thủ có kỹ thuật tốt, nhưng với sự cần cù và nhiệt tình quả cảm trong thi đấu, Torres luôn có mặt trong đội hình xuất phát của Barca ở vị trí trung vệ.

Trận đấu chia tay Torres diễn ra vào năm 1976 với đối thủ Stade de Reims

Sau khi treo giầy vào năm 1976, Torres đảm nhận một chức vụ trong Tiểu ban kỹ thuật của CLB và dành thêm được một cúp C2 vào năm 1979 trong vai trò trợ lý cho HLV Rafe.

Đội tuyển quốc gia

Torres chơi năm trận tại Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Trận đấu đầu tay của ông là ngày 17 Tháng Mười năm 1968 trước Pháp. Trận đấu cuối cùng của ông là với Thụy Sĩ vào ngày 26 tháng ba năm 1969.

Chuyên nghiệp

Fc Barcelona 1965-76

Số trận: 475
Bàn thắng: 7

Danh hiệu

1 Spanish League (1973/74)
2 Spanish Cups (1967/68 and 70-71)
1 Fairs Cup (1965/66)
Fairs Cup Final 1971
 

Cọp Con

Meo Meo
Đầu quân
21/2/12
Bài viết
181
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
28
Nơi ở
Đất võ <3
Barça đồng
0
EMILI SAGI - BARBA

SAGI-BARBA.v1363885465.jpg

Emili Sagi sinh năm 1900 tại Bolívar, Argentina và qua đời năm 1951 tại Catalan. Ông được xem là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thời kì tiền nội chiến Tây Ban Nha và là một tiền đạo cánh trái huyền thoại của Barça. Sagi là một cầu thủ tốc độ, mạnh mẽ và kĩ thuật siêu phàm. Bộ đôi Sagi và Paulino Alcántara chính là cánh tay trái đắc lực của Barça trong thời kì hoàng kim – thời đại gắn liền với những cái tên khác như Platko, Sancho, Piera and Samitier. Không một cầu thủ nào thời đó có thể đi bóng được như Sagi. Đồng thời, Sagi luôn là cầu thủ đầu tiên được chọn thực hiện các pha đá phạt góc, phạt đền.


Ngoài tài năng bóng đá, Sagi còn nổi tiếng là một cầu thủ đạo đức mẫu mực và không bao giờ thực hiện các trò tiểu xảo, bẩn thỉu. Vì là con trai của ca sĩ baritone nổi tiếng Emilio Sagi Barba nên Sagi còn có một tên gọi khác trong thế giới bóng đá là “Sagi-Barba”. Với những gì đã cống hiến cho đội bóng lam – đỏ, Sagi xem như nhiệm vụ của ông tại Barcelona đã kết thúc nên năm 1919, sau khi kết hôn, ông đã rời khỏi CLB. Tuy nhiên, sau 2 năm dứt áo ra đi, tiền đạo này đã trở về đội bóng mà ông từng dành trọn tình yêu và tiếp tục cống hiến cho Barça thêm 11 năm nữa (1921-1932).

Sự nghiệp

- Thi đấu tại Barça: 1916-19 và 1921-32
- Số trận tham gia: 434
- Bàn thắng ghi được: 138
- Danh hiệu:
1 Liga (1928/29)
4 Cup Nhà Vua (1921/22, 1924/25, 1927/28)
10 Cup vô địch Catalonia (1918/19, 1921/22, 1923/24,1924/25, 1925/26, 1926/27, 1927/28, 1929/30, 1930/31 và 1931/32)
 
Sửa lần cuối:

Cọp Con

Meo Meo
Đầu quân
21/2/12
Bài viết
181
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
28
Nơi ở
Đất võ <3
Barça đồng
0
Agustí Sancho

Agustín_Sancho.jpg

SANCHO.v1363885362.jpg

Agustí Sancho (sinh tại Castellón năm 1896 – mất tại Barcelona, năm 1960) là một trunng vệ nổi bật về sức bền, thể lực và khả năng chơi bóng bổng. Sancho cùng với Samitier, Sagi-Barba, Alcántara, Piera.. là những cầu thủ vĩ đại góp phần tạo nên thời kì hoàng kim của Barça vào những năm 20 của thế kỉ 19.

Sự nghiệp:

-FC Barcelona: 1917-22 và 1923-28
-Số trận thi đấu: 402
-Bàn thắng: 44
-Danh hiệu:
+ 5 Cup Nhà Vua (1919/20, 1921/22, 1924/25, 1925/26 và 1927/28)
+ 9 Siêu cúp Catalonia (1918/19, 1919/20, 1920/21, 1921/22, 1923/24, 1924/25, 1925/26, 1926/27 and 1927/28)
 
Sửa lần cuối:

Cọp Con

Meo Meo
Đầu quân
21/2/12
Bài viết
181
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
28
Nơi ở
Đất võ <3
Barça đồng
0
FRANCESC CALVET

CALVET.v1362418563.jpg

Francesc Calvet (Sant Joan Despí, Barcelona, 1921 - Hospitalet de Llobregat, Barcelona, 2001) bắt đầu thi đấu cho đội một sau khi Nội chiến TBN kết thúc. Calvet là một trong số ít cầu thủ khiêm tốn mà bất cứ câu lạc bộ nào cũng muốn sở hữu. Ông là một cầu thủ linh hoạt có khả năng thi đấu ở nhiều vị trí như tiền đạo, tiền vệ, hậu vệ cánh. Bên cạnh khả năng chơi bóng, nhân cách cũng là nhân tố góp phần tạo nên danh tiếng cho cầu thủ này. Ở ông hội tủ nhiều phẩm chất tốt đẹp như khiêm tốn, tinh thần thi đấu kiên cường, sự hy sinh và cống hiến hết mình cho CLB. Thêm vào đó, ông là một người con hết mực yêu quê huơng. Sau khi từ giã sự nghiệp cầu thủ, ông trở về làm việc ở quê nhà.

Sự nghiệp:
*FC Barcelona: 1939 – 1952
*Số trận thi đấu: 238
*Bàn thắng: 10
*Danh hiệu:
- 4 Vô địch giải quốc nội (1944/45, 1947/48, 1948/49 và 1951/52)
- 3 Cúp Nhà Vua (1941/42, 1950/51 và 1951/52)
- 2 Copas Latinas (1948/49 và 1951/52)
- 2 Copas Eva Duarte (1948/49 và 1951/52)
 
Sửa lần cuối:

Cọp Con

Meo Meo
Đầu quân
21/2/12
Bài viết
181
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
28
Nơi ở
Đất võ <3
Barça đồng
0
ÁNGEL AROCHA

Ángel Arocha sinh năm 1907 tại Santa Cruz de Tenerife và gia nhập FC Barcelona từ tháng 4 năm 1927. Ông chính một trong những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử CLB với kỉ lục 215 bàn trong 207 trận. Trong bảy năm chơi bóng tại Barcelona, Arocha đã đạt được một số thành tích đáng kể cùng CLB gồm: 1 Cúp vô địch giải quốc nội (1928/29), 1 Cúp vô địch Tây Ban Nha (1927/28) và 4 Cúp Vô địch Catalan (1927/28, 1929/30, 1930/31 và 1931/32).

AROCHA.v1362416350.jpg

Tuy thường xuyên là lựa chọn số một cho vị trí tiền đạo của đội bóng nhưng Arocha đã để lại một vết nhơ không thể gột sạch về nhân cách trong lòng đồng đội và người hâm mộ. Ông từng cùng với 2 cầu thủ Piera và Sastre đã sáng lập nên CLB đình đám Piera-Sastre-Arocha (sau này có tên là Casal Barcelonista).

Khi nội chiến Tây Ban Nha nổ ra, cựu cầu thủ Barça tham gia quân đội Franco và chết tại chiến trường Ebro Front vào năm 1938.
 
Sửa lần cuối:

Cọp Con

Meo Meo
Đầu quân
21/2/12
Bài viết
181
Được thích
1
Điểm
18
Tuổi
28
Nơi ở
Đất võ <3
Barça đồng
0
JOSEP VALLE

VALLE.v1362677099.jpg

Josep Valle (sinh năm 1917 tại Oliete, Teruel – mất năm 2005 tại Barcelona) là cầu thủ thuận cả hai chân, có tốc độ và sở hữu những cú sút đầy uy lực. Ông chuyển đến thi đấu cho Barcelona vào năm 1940 từ câu lạc bộ UE Sants, và nhanh chóng trở thành chân sút không thể thiếu của đội bóng. Theo như những phóng viên thể thao thời đó miêu tả, Valle là một cầu thủ chơi bóng “rất khoa học và là tác giả của những cú chạm bóng đầy tinh tế.” Những đường chuyền của ông đã tạo ra không ít cơ hội cho các tiền đạo như César và Mariano Martín lập công.

Sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ, ông chuyển sang làm công tác huấn luyện và sau đó tham gia vào Hội những cựu cầu thủ FC Barcelona. Tại đây, ông rất nổi tiếng với cái tên “Thần hộ mệnh của những cựu binh” bởi ông thường xuyên đến thăm hỏi, động viên, giúp đỡ những cựu cầu thủ gặp khó khăn về tài chính, sức khỏe. Ông đã được vinh danh tại buổi lễ kỉ niệm 100 năm thành lập câu lạc bộ bởi những cống hiến của mình. Đặc biệt phải kể đến việc ông đã tìm và tập hợp được những cựu cầu thủ đã mất liên lạc trong nhiều năm và tổ chức được một buổi gặp mặt vào ngày 29 tháng 04 năm 1999. Trong số 329 cựu cầu thủ có 321 người ở Barcelona và 250 người trong số đó đã tham gia buổi họp mặt.

Sự nghiệp:
- Thời gian thi đấu cho Barça: 1940-1948
- Tổng số trận đã thi đấu: 141
- Tổng số bàn thắng ghi được: 49
- Các danh hiệu đạt được cùng Barça
+2 La Liga (1944-1945 và 1947-1948)
+1 Cúp nhà Vua Tây Ban Nha (1941-1942)
 

Chủ đề mới nhất

Xã viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Giới thiệu

  • Barçamania Việt Nam thành lập từ năm 2005. Chúng tôi không thiên vị trong các thảo luận, đảm bảo thông tin chính xác không giả mạo. Chúng tôi cam kết xây dựng diễn đàn lành mạnh và phi lợi nhuận.
Top